Truyền thống gốm sứ Việt Nam
Một trong những nước phương Đông có nguồn gốc văn hoá đến
hàng ngàn năm, Việt Nam đã được thế giới công nhận về sự tuyệt vời và đa dạng về
thủ công và kỹ năng của các nghệ nhân gốm. Hàng ngàn năm tuổi, ngành gốm sứ ở
Việt Nam, thay vì biến mất, vẫn sống động, tồn tại song song với cuộc sống con
người. Không phải ngẫu nhiên danh hiệu những ngôi làng gốm nổi tiếng luôn có mặt
trong các bài hát dân gian và thể hiện giá trị của người Việt Nam.
Thời kì đỉnh cao
Hai tác giả Joh Guy và Joh Stevenson đã viết trong cuốn sách
nổi tiếng Gốm Việt Nam - Một truyền thống riêng biệt rằng: “Gốm Việt Nam phát
triển theo một chiều hướng riêng biệt, khác hoàn toàn với mọi cường quốc gốm sứ
khác, kể cả Trung Quốc - nơi được mệnh danh là siêu cường về gốm sứ”. Trong đó,
gốm Lý - Trần được đánh giá như đỉnh cao của nghệ thuật gốm Việt. Thời kỳ này,
nghề gốm mới thực sự phát triển và đánh dấu giai đoạn hoàng kim. Nhiều làng gốm
chất lượng, đạt giá trị thẩm mỹ được hình thành như: Bát Tràng (Hà Nội), Phù
Lãng (Bắc Ninh), Hương Canh (Vĩnh Phúc)... Nhiều mẫu gốm mới, kỹ thuật chế tác
điêu luyện được sáng tạo và trở thành bí quyết cho thế hệ sau. Nổi bật phải kể
đến gốm men trắng thời Lý, được đánh giá độc nhất chỉ có tại Việt Nam, hay gốm
men xanh, gốm men nâu thời Trần đều mang đến giá trị văn hóa, nghệ thuật cũng
như Phật giáo thời Lý - Trần.
Ngày nay, những người làm nghề hay nhà nghiên cứu đều đánh
giá cao giá trị của gốm sứ thời Lý - Trần. Một số nghệ nhân làng gốm Bát Tràng,
hay lò gốm tại Biên Hòa đã tạo sản phẩm gốm mang mẫu mã hoa văn thời kỳ này để
phục vụ khách du lịch. Theo nguyên Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam
Phạm Quốc Quân: “Hiểu một cách thực dụng có thể cho rằng đây là sự sao chép,
nhưng ở khía cạnh tích cực có thể hiểu như một cách bảo tồn giá trị nghệ thuật
gốm truyền thống”.
Tuy nhiên, việc khôi phục, phát huy giá trị, hoa văn gốm thời
Lý - Trần vẫn chỉ dừng lại ở sự tự phát của một số nghệ nhân và làng gốm truyền
thống. Đội ngũ nghiên cứu về gốm sứ còn tản mát cũng là một trở ngại. Hiện nay,
Đông Nam Á có Hiệp hội Nghiên cứu gốm sứ, có tạp chí chuyên ngành gốm sứ, nhưng
ở Việt Nam chưa có tổ chức như vậy, nên tiếng nói trong cộng đồng chưa mạnh mẽ
để thúc đẩy nghiên cứu, phục hồi, phát huy bản sắc của gốm sứ Việt. PGS.TS. Phạm
Quốc Quân cho rằng: “Định hướng rõ ràng sẽ tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần,
từ đó có thể bảo tồn giá trị gốm truyền thống, mặc dù đã có nhiều người tâm huyết,
như nghệ nhân Trần Độ, Vũ Đức Thắng... tại làng gốm Bát Tràng đang làm rất tốt
việc khôi phục, phát huy và truyền dạy cho thế hệ sau”.
Gốm sứ tại Bình Dương |
Cần phải tạo thêm sự
tương tác
Hiện nay, việc phát triển, đưa mẫu mã hoa văn gốm thời Lý -
Trần vào cuộc sống còn thiếu chiến lược. Trong khi đó, với sự phát triển của xã
hội cộng thêm cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, vật liệu mới, nghề làm gốm
trở nên công nghiệp hóa, kỹ thuật chế tác và các mẫu hoa văn cổ mai một dần. Mặt
khác, sự xuất hiện tràn lan của gốm sứ Trung Quốc lấn át cả về mặt thị trường,
công nghệ trong sản xuất của các làng nghề truyền thống. Theo các nhà nghiên cứu,
để phát huy được sự khác biệt của gốm sứ Việt Nam cần có sự nghiên cứu, tổ chức
sản xuất để cho ra sản phẩm đúng với tinh thần gốm sứ Việt từ xưa tới nay và tạo
được thị trường xuất khẩu, thị trường cho những người sưu tầm gốm Việt.
Ngày nay, gốm hiện đại được dựa trên các kỹ thuật gốm sứ
truyền thống đã hoạt động hàng trăm năm. Những gì trong quá khứ là một nghề thủ
công huy hoàng đòi hỏi kỹ năng tuyệt vời ngày hôm nay là một ngành công nghiệp
khác đang phát triển. Bên cạnh các trung tâm cổ xưa, vẫn đang hoạt động và tiếp
tục sử dụng các phương pháp truyền thống, nhiều cộng đồng mới và cũ đã bắt đầu
sử dụng các kỹ thuật nhập khẩu, như đúc, sử dụng các chất tráng men hóa học, và
đốt trong lò nung điện hoặc lò điện. Các hình dạng và trang trí của nhiều sản
phẩm hiện nay theo thị hiếu thẩm mỹ quốc tế. Gốm truyền thống, tuy nhiên, giữ lại
giá trị của nó như là một cây cổ thụ giữa một khu rừng công nghiệp.
Nhận xét
Đăng nhận xét